cứu vật vật trả ơn

Cứu vật vật trả ơn, cứu nhân nhân trả oán Đọc bài Ngày xưa, có một anh chàng không có tài nghệ gì cả, chỉ được cái hiền lành hay thương người. Từ lúc vợ chết, anh ta trở nên túng bấn tợn. Có dạo phải ngửa tay ăn xin. Thấy nghề này hèn hạ lại không nuôi nổi tấm thân, anh chàng mới xoay sang đi làm thuê. Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi. Cách trả ơn của Kiều Nguyệt Nga ở đây không chỉ bộc lộ ở tấm lòng chân thành của người mang ơn, mà còn nói lên quan niệm trả ơn của nhân dân ta: không chỉ bằng lời cảm ơn suông, mà còn bằng vật chất cụ thể, bởi chỉ có như vậy mới chứng tỏ được tấm lòng chân Cứu vật, vật trả ơn - Cứu nhân, nhân báo oán. Ngày xưa, có một anh chàng không có tài nghề gì cả, chỉ được cái hiền lành hay thương người. Từ lúc vợ chết, anh ta trở nên túng bấn tợn. Có dạo phải ngửa tay ăn xin Ngày xưa, có một anh chàng không có tài nghề gì cả cứu vật vật trả ơn - đình soạn. Due to a planned power outage on Friday, 1/14, between 8am-1pm PST, some services may be impacted. Cảm động những câu chuyện loài vật trả ơn con người. 26/11/2015, 17:51 GMT+07:00. Nhiều loài động vật hoang dã gặp nạn được con người cứu sống, chữa lành vết thương rồi đưa về thiên nhiên để sinh sống. Tưởng chừng, việc làm đó không có gì to tát thì bất ngờ một Site De Rencontre Français Totalement Gratuit. Cứu vật, vật trả ơn – Cứu nhân, nhân trả oán là câu chuyện cổ tích Việt Nam, lên án những kẻ bất nghĩa, bụng còn nguy hiểm hơn cả những con vật nguy hiểm. 1. Anh chàng đi câu và con rắn Ngày xưa, có một anh chàng nghèo khó, không nghề nghiệp, nhưng được cái có tính hiền từ, lương thiện, rộng thương mọi người. Khốn khó hơn nữa, vợ anh lại chết sớm, bỏ lại anh ta một mình không biết làm cách nào để nuôi thân. Có dạo anh ta ngửa tay đi ăn xin, nhưng việc làm này cũng chỉ đủ sống qua ngày, mà lại thấy hèn hạ nữa. Anh ta xoay qua nghề làm thuê, nhưng bản chất vụng về, không ai chịu thuê mướn anh cả. Bất đắc dĩ, anh dành dụm được ba mươi đồng tiền, mua được một cái cần câu và xoay sang nghề câu cá. Suốt ngày, anh ngồi nơi bờ sông thả câu, nhưng có bữa không bắt được con cá nào, đành phải nhịn đói. Một hôm, anh vừa móc mồi buông câu thì thấy phao chìm xuống, anh giật lên té ra không phải cá mà là một con rắn nước. Lấy làm bực mình, anh gỡ con rắn ra rồi ném trả xuống sông. Lần thứ hai, anh giật lên, cần câu nặng trĩu, thì lại chính là con rắn nước lúc nãy. Anh than thở – Rắn ơi! Ta nghèo lắm. Ta chỉ có ba mươi đồng mua sắm cái cần câu này, ngươi đừng hại ta, làm hết cả mồi ta lấy gì kiếm ăn. Anh chàng lại ném con rắn xuống nước. Lần thứ ba, lại cũng con rắn đó mắc vào lưỡi câu. Lần này anh ta giận lắm, không thả rắn xuống nước nữa mà định bắt rắn đem về giết thịt. Khi anh ta đi qua cửa đền bà thần Khai Khẩu, tự nhiên con rắn nước nói – Đừng giết tôi! Tôi là con vua Thủy phủ, vì muốn kết bạn với anh nên tôi mới cắn câu nhiều lần như thế. Hãy cho tôi theo anh để giúp anh vượt qua cảnh nghèo khó. Anh chàng câu cá vốn sẵn tính nhân từ, nghe nói bỗng cảm tình, cho rắn theo mình, ngày đêm ở bên nhau như một người bạn thân. Từ đó, anh câu được rất nhiều cá, thứ ăn, thứ bán, cuộc sống rất dễ chịu. Một hôm, rắn lội xuống sông tìm mồi, qua một lúc trở về nói – Trong ba ngày nữa, sẽ có trận bão lụt rất lớn xưa nay chưa từng có, nếu không đề phòng sẽ bị chết trôi. Anh ta nghe lời rắn, chặt cây đóng một chiếc bè bằng nứa để đề phòng tai nạn. Anh lại loan báo cho mọi người xung quanh biết, nhưng không một ai nghe. Quả nhiên, ba ngày sau, gió bão nổi lên ầm ầm, trời mưa như trút nước, người, vật, đồ đạc và mùa màng nước dâng lên, trôi ra biển cả. Mãi cho đến lúc cơn bão tạnh, anh chàng mới chống bè tìm về chỗ cũ. Cứu vật, vật trả ơn 2. Người ân nhân trong trận bão lụt lớn Trên đường đi, anh thấy một ổ kiến đang lênh đênh trên mặt nước, anh định lấy sào đẩy ra xa, nhưng con rắn bảo – Hãy cứu chúng. Anh ta nói – Cứu làm gì bầy kiến, chúng sẽ bò khắp bè thêm khổ. Rắn bảo – Không! Anh hãy nghe tôi, rồi chúng sẽ trả ơn anh. Tuy không thiết tha đến việc kiến đền ơn, nhưng anh ta vì có lương tâm nên nghe lời rắn, vớt ổ kiến bỏ lên bè. Đi được một đoạn, anh ta lại gặp một con chuột đang lội bì bõm, sắp chết đuối. Rắn nói – Hãy mau vớt lấy nó. Anh đáp – Con chuột thì cứ để nó chết chứ cứu làm gì? Rắn nói – Không! Anh hãy nghe tôi đi. Rồi nó sẽ trả ơn anh. Nghe lời rắn, anh ta lại vớt con chuột lên bè. Đến một chỗ khác, chàng lại gặp một con trăn đang nằm cuộn tròn trên một ngọn cây giữa dòng nước đợi chết. Rắn cũng giục anh giúp con trăn thoát nạn. Anh chàng lẩm bẩm – Con trăn là loài vật hung dữ, cứu nó làm gì? Rắn nói – Không! Anh nên nghe lời tôi. Rồi nó sẽ trả ơn anh. Nghe lời rắn, anh ta lại giúp cho trăn lên bờ. Sau cùng, chàng gặp một người đàn ông đang bám vào một khúc gỗ trôi giữa dòng nước. Anh ta không đợi rắn bảo ghé bè lại để cứu. Rắn cản lại – Anh đừng vớt hắn lên làm gì. Hắn sẽ làm hại anh đấy. Anh ta đáp – Người ta thường nói “Cứu một người dân gian bằng một ngàn người âm phủ”. Sao lại quý mạng con vật hơn con người. Rồi mặc kệ con rắn ngăn cản, anh ta vớt người sắp chết đuối đó lên bè, cho ăn uống tử tế. 3. Cứu nhân – nhân trả oán Sau mấy ngày rút nước, anh ta thả tất cả những con vật lên bờ, con người nọ vì nhà cửa tiêu tan, nên anh cho ở lại với mình cùng câu cá nuôi nhau, coi như anh em ruột. Được một thời gian ngắn, con rắn muốn trở về Thủy phủ, lại rủ anh chàng đi theo để biết giang sơn của cha mình. Anh bằng lòng đi chơi. Dọc đường, rắn bảo bạn – Cha tôi là vua Thủy phủ, không thiếu gì châu báu, anh là bạn của tôi, thế nào cũng được trọng đãi. Nếu cha tôi có cho gì anh đừng nhận, chỉ xin cho một chiếc đàn thất huyền mà thôi. Chiếc đàn ấy rất màu nhiệm, có thể phá tan được quân giặc. Đúng như lời của rắn nói, vua Thủy phủ thấy bạn của con mình đến chơi, rất quý trọng, định cho nhiều báu vật, nhưng anh ta chỉ xin mỗi một cây đàn. Vua Thủy phủ thuận tình, trao chiếc đàn cho anh và đưa tiễn lên cõi đất. Anh trở về rất quý trọng cây đàn, nhưng một hôm, có việc phải đi xa, anh cất chiếc đàn nơi bồ lúa, dặn người bạn chớ nên lục lạo ở nơi đó. Người bạn ngờ là anh cất giấu của cải nên đợi anh đi xa rồi lập tức bới bồ lúa lấy cây đàn ra. Hắn cũng đã được nghe anh nói về sự màu nhiệm của chiếc đàn này nên vội vàng mang vào cung vua để lập công danh. Bấy giờ gặp lúc quân đội nhà vua bị quân nước láng giềng đến quấy phá, hắn tâu với vua xin cho đi dẹp loạn. Nhờ có chiếc đàn thần, hắn đã làm cho quân địch tan tác, phải rút về nước. Dẹp yên được giặc, nhà vua khen ngợi và phong hắn làm đại tướng, ban bổng lộc rất hậu. Được giàu sang, hắn không nghĩ gì đến ơn người đã cứu mạng mình nữa. Nhà vua lại toan gả công chúa cho hắn thì bỗng dưng công chúa bị mắc một căn bệnh không nói được nên lễ hôn nhân đình lại để tìm thầy thuốc chữa bệnh. Nhắc lại anh chàng câu cá, lúc trở về nhà không thấy người bạn đâu, lại mất luôn cây đàn thì vội vàng đi tìm. Vào đến kinh đô, anh gặp được người bạn mình đã cứu giúp. Hắn bây giờ ngồi trên kiệu sơn, có quân lính theo hầu hạ, quần áo toàn là nhung gấm rất sang trọng. Anh chàng câu cá đón kiệu lại, cất tiếng hỏi thăm bạn cũ. Nhưng người kia vừa gặp ân nhân của mình vội hét lính bắt trói và để khỏi lộ chuyện. Hắn vu cho anh chàng câu cá là giặc, sai nhốt vào ngục tối, không cho ăn chờ ngày đưa ra pháp trường xử trảm. 4. Cứu vật – vật trả ơn Nằm trong ngục tối, anh câu cá than thở, oán hận con người phản phúc, đột nhiên lũ kiến xuất hiện cất tiếng hỏi – Sao anh lại bị giam ở đây? Anh chàng câu cá ngơ ngác, không biết ai hỏi nên hỏi lại – Ai đó? Tại sao chỉ nghe tiếng nói mà không nhìn thấy người? Bầy kiến đáp – Chúng tôi là bầy kiến đã được anh cứu thoát nạn ngày xưa, hiện đang ở dưới chân anh đây. Anh chàng câu cá kể lại đầu đuôi câu chuyện cho bầy kiến nghe. Bầy kiến nghe xong nói – Chúng tôi không thể làm gì để cứu anh được, nhưng có thể đi tìm con chuột, may ra chuột có cách gì giúp anh. Bầy kiến bèn chia nhau đi tìm chuột và báo tin cho bầy chuột hay tình trạng không may của ân nhân. Chuột bảo – Bây giờ chắc anh ta đang đói lắm, nhưng tôi chỉ có thể mang thức ăn vào ngục để cứu anh ta thôi. Tôi sẽ đi tìm con trăn ngày xưa, may ra có cách gì chăng. Lũ chuột liền tha thức ăn lấy trộm được ở nhà bếp mang vào ngục cho anh ăn. Sau đó, cả gia đình chuột cùng bầy kiến đi tìm trăn. Cả bầy chuột đều sợ trăn ăn thịt nên không dám ra mặt, chỉ có con chuột già liều mạng leo lên cây, gọi con trăn, nói – Bác trăn ơi! Người ơn của ta trước kia nay bị nạn rồi! Tiếp đó, chuột kể lại đầu đuôi câu chuyện cho trăn nghe. Trăn liền nhả ra một viên ngọc, bảo chuột đem về trao cho ân nhân và dặn – Viên ngọc này mài ra có thể trị được bệnh câm của công chúa. Ân nhân của chúng ta có thể nhờ đó mà thoát nạn. Khi có được viên ngọc, anh chàng câu cá gọi người cai ngục lại, nhờ tâu với vua là mình có thuốc chữa được bệnh câm của công chúa. Quả nhiên, sau khi công chúa uống nước viên ngọc mài ra thì nói được câu đầu tiên là sẽ lấy người cứu mình làm chồng. Nhà vua mừng rỡ, hỏi anh ta vì sao mà có thứ thuốc thần diệu như vậy. Anh chàng câu cá kể rõ câu chuyện từ đầu đến cuối, từ lúc câu được rắn nước, cứu các con vật trong trận bão lụt đến lúc cứu được người thì bị người phản bội, còn cứu vật – vật trả ơn, trong đó con trăn cho viên ngọc để cứu công chúa. Nhà vua nghe xong, nói – Thật là bụng dạ hắn nguy hiểm hơn cả những con vật nguy hiểm. Lập tức vua sai lính bắt tên đại tướng bất nhân, bất nghĩa kia giam vào ngục để chờ ngày xét xử. Còn anh chàng câu cá thì được vua phong quan tước và gả công chúa cho. Câu chuyện Cứu vật, vật trả ơn – cứu nhân, nhân trả oán – – Truyện Cứu vật, vật trả ơn – Cứu nhân, nhân trả oán Ý nghĩa truyện Cứu vật, vật trả ơn – Cứu nhân, nhân trả oán Nội dung câu chuyện có vài chi tiết giống với truyện Thạch Sanh – Lý Thông, lên án những kẻ bất nhân, bất nghĩa, bụng dạ của chúng còn nguy hiểm hơn cả những con vật nguy hiểm. Tác giả dân gian nhở chúng ta cần phải luôn có sự đề cao cảnh giác đối với những người xa lạ. Lòng tốt và tình thương cần phải đặt đúng nơi, đúng chỗ. Câu chuyện còn có tác dụng góp phần làm tăng thêm tình yêu và sự gần gũi của các bạn nhỏ dành cho các con vật xung quanh trong cuộc sống hàng ngày. Giải thích ý nghĩa câu truyện cổ tích cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân, nhân trả oán nói lên điều gì? những thông tin nào cho chúng ta biết được ý nghĩa cũng như nguồn gốc của câu truyện cổ tích việt nam này. Tìm hiểu thêm Anh em thuận hòa là nhà có phúc Tốt danh hơn lành áo là gì? Cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân, nhân trả oán là gì? “Cứu vật” là hành động cứu giúp người hoặc động vật gặp nguy hiểm hoặc khó khăn. “Vật trả ơn” là hành động đáp lại bằng cách giúp đỡ người đã từng cứu giúp mình trước đó. “Cứu nhân” là hành động giúp đỡ người khác trong trường hợp họ gặp nguy hiểm hoặc khó khăn. “Nhân trả oán” là một khái niệm trong triết học, đó là ý niệm rằng hành động xấu của con người sẽ dẫn đến hậu quả xấu trở lại cho bản thân người đó. Tức là, nếu bạn làm điều xấu, bạn sẽ phải chịu hậu quả xấu trong tương lai. Nguồn gốc truyện cổ tích cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân, nhân trả oán Câu chuyện cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân và nhân trả oán không phải là một câu chuyện cổ tích cụ thể. Thay vào đó, đây là các khái niệm phổ biến trong triết học và văn học, có xuất xứ từ nhiều nguồn khác nhau. Trong văn học, các khái niệm này có thể được thấy trong các câu chuyện cổ tích và truyền thuyết từ nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Ví dụ như trong truyện “The Lion and the Mouse” Sư tử và chuột của Aesop, sư tử bị bắt trong cái bẫy và được chuột giải thoát. Sau đó, chuột cũng bị bắt trong cái bẫy và được sư tử giải thoát. Câu chuyện này có thể được xem như một ví dụ về cứu vật và vật trả ơn. Tuy nhiên, các khái niệm này không chỉ tồn tại trong các câu chuyện cổ tích mà còn là một phần của các giá trị và đạo đức của nhiều nền văn hóa trên thế giới. Ý nghĩa truyện cổ tích cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân, nhân trả oán Câu chuyện cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân và nhân trả oán có ý nghĩa giáo dục rất quan trọng trong việc truyền đạt các giá trị đạo đức và nhân văn cho trẻ em. Các khái niệm này có thể giúp trẻ em hiểu rõ hơn về tình cảm yêu thương, lòng nhân ái, lòng tốt đẹp và trách nhiệm đối với xã hội. Cứu vật và cứu nhân giúp trẻ em hiểu được tầm quan trọng của việc giúp đỡ người khác khi họ gặp khó khăn, giúp trẻ em trở nên nhân từ và có lòng bao dung. Vật trả ơn và nhân trả oán giúp trẻ em hiểu được tầm quan trọng của việc trân trọng những người đã giúp đỡ mình và trả lại bằng cách giúp đỡ người khác trong tương lai, giúp trẻ em trở nên biết ơn và tận tâm. Ngoài ra, các khái niệm này còn có ý nghĩa rất lớn trong việc truyền đạt các giá trị đạo đức và nhân văn cho các thế hệ sau. Chúng giúp con người thấu hiểu và trân trọng giá trị của tình người và tình cảm yêu thương, từ đó trở nên tốt bụng hơn, sống hòa thuận với mọi người và giúp đỡ người khác một cách chân thành và tình nguyện. Câu truyện cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân, nhân trả oán Sau mấy ngày rút nước, anh ta thả tất cả những con vật lên bờ, con người nọ vì nhà cửa tiêu tan, nên anh cho ở lại với mình cùng câu cá nuôi nhau, coi như anh em ruột. Được một thời gian ngắn, con rắn muốn trở về Thủy phủ, lại rủ anh chàng đi theo để biết giang sơn của cha mình. Anh bằng lòng đi chơi. Dọc đường, rắn bảo bạn – Cha tôi là vua Thủy phủ, không thiếu gì châu báu, anh là bạn của tôi, thế nào cũng được trọng đãi. Nếu cha tôi có cho gì anh đừng nhận, chỉ xin cho một chiếc đàn thất huyền mà thôi. Chiếc đàn ấy rất màu nhiệm, có thể phá tan được quân giặc. Đúng như lời của rắn nói, vua Thủy phủ thấy bạn của con mình đến chơi, rất quý trọng, định cho nhiều báu vật, nhưng anh ta chỉ xin mỗi một cây đàn. Vua Thủy phủ thuận tình, trao chiếc đàn cho anh và đưa tiễn lên cõi đất. Anh trở về rất quý trọng cây đàn, nhưng một hôm, có việc phải đi xa, anh cất chiếc đàn nơi bồ lúa, dặn người bạn chớ nên lục lạo ở nơi đó. Người bạn ngờ là anh cất giấu của cải nên đợi anh đi xa rồi lập tức bới bồ lúa lấy cây đàn ra. Hắn cũng đã được nghe anh nói về sự màu nhiệm của chiếc đàn này nên vội vàng mang vào cung vua để lập công danh. Bấy giờ gặp lúc quân đội nhà vua bị quân nước láng giềng đến quấy phá, hắn tâu với vua xin cho đi dẹp loạn. Nhờ có chiếc đàn thần, hắn đã làm cho quân địch tan tác, phải rút về nước. Dẹp yên được giặc, nhà vua khen ngợi và phong hắn làm đại tướng, ban bổng lộc rất hậu. Được giàu sang, hắn không nghĩ gì đến ơn người đã cứu mạng mình nữa. Nhà vua lại toan gả công chúa cho hắn thì bỗng dưng công chúa bị mắc một căn bệnh không nói được nên lễ hôn nhân đình lại để tìm thầy thuốc chữa bệnh. Nhắc lại anh chàng câu cá, lúc trở về nhà không thấy người bạn đâu, lại mất luôn cây đàn thì vội vàng đi tìm. Vào đến kinh đô, anh gặp được người bạn mình đã cứu giúp. Hắn bây giờ ngồi trên kiệu sơn, có quân lính theo hầu hạ, quần áo toàn là nhung gấm rất sang trọng. Anh chàng câu cá đón kiệu lại, cất tiếng hỏi thăm bạn cũ. Nhưng người kia vừa gặp ân nhân của mình vội hét lính bắt trói và để khỏi lộ chuyện. Hắn vu cho anh chàng câu cá là giặc, sai nhốt vào ngục tối, không cho ăn chờ ngày đưa ra pháp trường xử trảm. Người xưa vẫn nói cứu vật vật trả ơn’, con vật sống cũng có tình cảm, có ân nghĩa, đôi khi còn dám xả thân để cứu chủ thoát khỏi nguy hiểm. Dưới đây là câu chuyện có thật được ghi lại. Một con chó đã tình nguyện chết để cứu người. Chó mẹ biểu hiện bất thườngChó mẹ Tái Hổ dường như đang muốn cảnh báo một điều gì đóChó mẹ đã xả thân cứu hơn 30 mạng ngườiNghĩa trang lập bia để tưởng nhớ Tái HổHơn 100 người đội mưa đi đưa tangCâu chuyện nhận nuôi Tái HổCứu vật vật trả ơn Chó mẹ biểu hiện bất thường Chiều ngày 28/11/2003, thầy Lưu đã mua một con chó bị chết ở chợ mang về trường dạy lái xe. Người đầu bếp của căng tin đã hầm một nồi thịt chó để cải thiện bữa ăn cho hơn 30 nhân viên ở trường. Mùi thịt bay xa đã hấp dẫn một đám chó con đi vào căng tin kiếm ăn. Một nhân viên khi thấy mấy chú chó con đến thì liền gắp một miếng thịt cho chúng ăn. Bất ngờ con chó mẹ có tên là Tái Hổ’ đã xông đến, dùng hai chân chặn lấy miếng thịt ở trên mặt đất. Chó mẹ đột nhiên rú lên và tỏ ra rất hung dữ, không cho đám con của nó ăn. Một con chó con muốn đến gần mẹ nó để làm nũng, nhưng đã bị Tái Hổ hất văng ra ngoài cửa. Những con chó con khác thấy thế thì bỏ chạy tán loạn. Đám chó con bỏ đi rồi, Tái Hổ lại sủa liên hồi vào miếng thịt chó ở trên mặt đất; nhưng mấy chục nhân viên của trường không có để ý đến, mọi người đang chuẩn bị để ăn thịt chó. Thấy mọi người không có phản ứng gì, Tái Hổ tỏ ra mất kiên nhẫn, nó cứ đi tới đi lui. Nó liên tục nhìn vào nồi thịt chó và rú lên. Mấy nhân viên ở trường cho rằng Tái Hổ muốn được ăn nhiều thịt hơn, vì vậy lại gắp cho nó thêm vài miếng nữa. Nhưng Tái Hổ lại dùng chân dẫm lên miếng thịt ở dưới đất mà không ăn, nó chỉ sủa liên hồi. Mọi người thấy vậy thì thôi cứ mặc kệ nó không quan tâm nữa. Chó mẹ Tái Hổ dường như đang muốn cảnh báo một điều gì đó Tái Hổ nhìn thấy người vào căng tin mỗi lúc một đông, hơn nữa đều ngồi vây quanh nồi thịt chó, thì nó lại càng hướng vào nồi thịt chó mà sủa lớn hơn nữa; âm thanh ngày càng dồn dập thê lương. Thấy mọi người không quan tâm gì đến nó, Tái Hổ lại nhảy dựng lên ở trên mặt đất, phát ra âm thanh còn thê thảm hơn nữa. Nghe thấy âm thanh não nề của chó mẹ, 4 con chó con lại tiến đến gần mẹ của nó. Tái Hổ dùng cái mũi ướt của nó ngửi từng con chó con, dùng lưỡi liếm cẩn thận chỗ dơ trên người của một chú cún. Nhưng ngay sau đó Tái Hổ lại chạy tới trước nhóm người, dùng đầu của nó húc vào chân của mọi người. Nhưng mọi người vẫn không hiểu là con chó này đang muốn gì. Đột nhiên, Tái Hổ ngồi xuống đất, vừa chảy nước mắt, vừa thảm thiết kêu rên. Sau khi kêu lên một tiếng thì Tái Hổ ăn hết 3 miếng thịt chó ở dưới mặt đất… chưa đến 10 phút sau, Tái Hổ quằn quại ở dưới mặt đất, run rẩy, sau đó mắt mũi miệng của nó đều chảy máu, và thế là nó đã qua đời. Tượng đá và bia mộ để tưởng niệm Tái Hổ ảnh Kknews Chó mẹ đã xả thân cứu hơn 30 mạng người Nhìn thấy cảnh này, mười mấy người đang ngồi chờ ăn thịt chó đều sợ đến ngây người. Lúc này mọi người mới hiểu ra, nồi thịt chó này vậy là có độc rồi! Sau khi sự việc xảy ra, người ta đã lấy mẫu thịt chó đó đi xét nghiệm thì thấy có chứa thuốc diệt chuột Tetramethylenedisulfotetramine; hàm lượng của nó đủ để giết chết một con trâu. Vậy là nhờ có Tái Hổ mà hơn 30 người đã được cứu mạng. “Tôi trước đây từng nghe chuyện chó cứu người, nhưng đều cho đó là truyền thuyết. Vậy mà lần này nó lại xảy ra với chính bản thân tôi”. 3 năm qua rồi mà thầy Lưu vẫn còn cảm thán “Con chó này là do tôi mua được, nếu như có chuyện gì thì tôi làm sao mà không bị liên lụy. Chính là Tái Hổ đã cứu mọi người”. Nghĩa trang lập bia để tưởng nhớ Tái Hổ Sau khi Tái Hổ chết, vợ chồng Phó Văn Khải chủ nhân của nó rất đau buồn. Họ đem Tái Hổ chôn ở đằng sau vườn nhà. Trương Ninh Kháng, giám đốc nghĩa trang Hạ Gia Sơn ở thành phố Cửu Giang, nghe nói Tái Hổ xả thân cứu người thì đã rất cảm động. Ông tìm đến nhà của vợ chồng Phó Văn Khải, tỏ ý muốn đem Tái Hổ đến chôn ở nghĩa trang Hạ Gia Sơn. Vợ chồng Phó Văn Khải rất ngạc nhiên, mới nói rằng “Anh coi trọng Tái Hổ của chúng tôi như vậy, chúng tôi rất lấy làm cảm kích. Nhưng nghĩa trang là nơi an táng cho người. Làm sao có thể chôn cất chó ở đó được?” Trương Ninh Kháng đáp “Thiên địa vạn vật, tất cả rồi cũng chết, thứ lưu lại chỉ có thể là tinh thần. Chẳng lẽ tinh thần của Tái Hổ xả thân cứu người lại không thể khiến chúng ta bội phục hay sao?” Nhiều người đã cảm động trước tinh thần xả thân của Tái Hổ ảnh Hơn 100 người đội mưa đi đưa tang Sau đó, Trương Ninh Kháng đã chi hơn nhân dân tệ hơn 35 triệu vnd để nhờ người làm mộ cho Tái Hổ, làm quan tài, khắc bia. Ngày 10/12/2003, Trương Ninh Kháng đã thuê 4 công nhân, lái hai chiếc ô tô đi chôn cất Tái Hổ. “Vào ngày hôm đó, có hơn 100 người đội mưa đi đưa tiễn Tái Hổ. Những người được cứu thậm chí còn rơi lệ thương tiếc. Hơn 10 quả pháo đồng loạt được đốt lên, cảnh tượng thật xúc động!” Thầy Lưu nghẹn ngào nhớ lại buổi tang lễ hôm đó. Nghĩa trang còn đặc biệt làm một bức tượng điêu khắc của Tái Hổ và đặt ở phía trước mộ, để mọi người đi tảo mộ có thể nhìn thấy phong thái của Tái Hổ khi xưa. Câu chuyện nhận nuôi Tái Hổ Về việc nhận nuôi Tái Hổ, bà Vương – vợ ông Phó Văn Khải đã kể với phóng viên rằng, bà làm bảo vệ của trường dạy lái xe Lâm Nghiệp thành phố Cửu Giang. Một buổi sáng mùa Đông năm 1999, khi trời mới tờ mờ sáng, Phó Văn Khải mở cửa ra thì thấy có một con chó săn nhỏ đang rét run trong mưa lạnh. Vừa thấy cửa mở ra, con cún chạy thẳng vào trong nhà của Phó Văn Khải; tự nhiên cứ như là chạy về nhà chủ của mình vậy. Lang thang nhiều ngày khiến cún con rất đói. Sau khi Phó Văn Khải cho nó ăn một miếng bánh mì, thì đưa nó vào nhà tắm để tắm rửa sạch sẽ. Lúc này Phó Văn Khải mới phát hiện ra đây là một con chó săn cái rất đẹp; đoán chừng cũng được 5 tháng tuổi rồi. Toàn thân nó màu nâu đậm, mõm dài, tai nhọn, mắt hổ sáng tinh, nhìn giống y như một con hổ nhỏ. Phó Văn Khải vì vậy mới đặt tên cho nó là “Tái Hổ”. Từ đó về sau Tái Hổ trở thành một thành viên quan trọng trong gia đình, đi đâu cũng được mang theo. Linh dương quỳ xin tha mạng – sự thật đằng sau khiến người thợ săn bỏ nghềBí ẩn khả năng thần giao cách cảm ở loài vật Cứu vật vật trả ơn Loài vật có nhiều khả năng đặc biệt mà khoa học cũng chưa thể khám phá ra hết ảnh “Kỳ thực lúc đầu tôi cũng không tán thành việc nuôi con chó nhỏ này; sợ nó làm cho nhà cửa bẩn thỉu. Nhưng nhờ có một chuyện mà tôi đã thay đổi suy nghĩ của mình; hơn nữa lại còn rất thích nó”. Bà Vương nói với phóng viên, cháu trai của bà khi được 7 tuổi, từng có một ngày vui chơi ở trong khu vực của nhà máy, không cẩn thận mà rơi xuống một cái giếng nước bỏ hoang. Tái Hổ biết được việc này thì sủa ầm lên, nhưng mãi mà cũng không có ai đi đến. Cuối cùng nó đành phải chạy về nhà. Tái Hổ về nhà liền cắn lấy ống quần của Phó Văn Khải và kéo ông đi ra ngoài; cứ thế mà đưa ông đến tận chỗ giếng nước. Tái Hổ nhìn xuống giếng, rồi lại nhìn Phó Văn Khải rồi sủa lên mấy tiếng. Phó Văn Khải nhìn xuống giếng thì thấy cháu trai đang nằm ở dưới đó, ông sợ tới mức mặt mũi trắng bệch. “Việc này khiến cho Tái Hổ trở nên nổi tiếng ở chỗ tôi. Cả nhà chúng tôi vì vậy mà coi Tái Hổ cứ như con cái của mình. Có mua được miếng thịt bò, thịt dê thì cũng phải chia cho Tái Hổ ăn”. Bà Vương nói. Cứu vật vật trả ơn, Tái Hổ quả thật là một con chó rất thông minh, thế giới động vật còn nhiều điều kỳ bí mà chúng ta chưa thể lý giải hết được. Theo Aboluowang Website chuyên thông tin về đạo Phật. Thư viện phật giáo gồm các clip sinh động về học Phật, đọc Pháp, hình ảnh chân thực các vị Phật, Bồ Tát Tin tức Phật học Danh tăng Văn học Văn hóa Tự viện Các Chùa Trong Nước Các Chùa Trên Thế Giới Phật pháp Giáo pháp Bước đầu học phật Lịch sử Nghi thức Từ thiện Thư viện audio Âm nhạc Pháp âm Radio phật giáo Nhạc chờ phật giáo Thư viện video Pháp thoại Thư viện ảnh Hình phật Hoa sen Chú tiểu Danh lam thắng cảnh Vật trả ơn, người trả oán vì sao lại như thế? Biết đền ơn, đáp nghĩa là một việc làm cao quý nhất trong cuộc đời, con người sống thiếu nó thì không có lòng nhân. Biết ơn và đền ơn là đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây. Ngày xưa, có một đất nước nọ, ông vua sống rất nhân từ, đạo đức, thông suốt việc đời cho đến việc đạo. Ông thấy rõ kiếp sống con người tạm bợ, mong manh, mạng người sống trong hơi thở, vì công danh, sự nghiệp, vợ đẹp, con ngoan mà nhiều người đành lòng giết hại, trộm cướp, lừa gạt mà bức hại, làm khổ lẫn vậy, vua liền từ bỏ tất cả, đi qua nước khác, tìm thầy học đạo và xuất gia làm người tu hành. Gần hai mươi năm, ông lánh xa thế gian trần tục, tinh tấn tu hành, sống đời đạm bạc. Chỗ ông đang ở có một hang sâu, không có đường hôm, có anh thợ săn vì ham đuổi theo con mồi mà rớt xuống hang. Vị thầy tu đó nghe tiếng kêu cứu, liền chặt dây leo thả xuống. Anh thợ săn nhờ vậy mà thoát chết. Lúc đó, anh đã bắt được một con rắn và một con quạ, nhốt chung vào cái rọ đeo bên thấy hai con vật tội nghiệp nên vị thầy thương tình, mở rọ ra thả chúng đi. Riêng anh thợ săn thì thương tích đầy mình, và thầy nhiệt tình chăm sóc. Sau đó, anh thợ săn phục hồi được sức khỏe, cám ơn rối rít vị ân nhân cứu mình và hứa sẽ có ngày đền ơn, đáp xong, anh chỉ cho thầy ngôi nhà ở bìa rừng và mời thầy khi nào có dịp thì ghé nhà chơi để gia đình có dịp hậu tạ. Trước đó, hai con vật được cứu thoát cũng đã thầm hứa khi thầy gặp chuyện không may, chúng sẽ hết lòng tìm phương cứu quạ sau khi thoát chết luôn tìm cách trả ơn thầy. Nó nghĩ mãi vẫn không có cách nào để đền ơn xứng đáng. Cuối cùng, nó sực nhớ ra, liền bay vào cung vua lúc nửa đêm để lấy cắp hạt kim cương quý giá của hoàng hậu. Sau đó, nó tìm đến vị thầy để đền ơn cứu mạng bằng cách dâng kính thầy hạt kim hậu sau khi ngủ dậy mới phát giác ra hạt kim cương bị mất, liền báo cho vua biết. Vì là vật gia bảo quý giá nên nhà vua truyền rao khắp tất cả thần dân thiên hạ, nếu ai tìm được viên kim cương sẽ được tặng đất đai, nhà cửa, tiền bạc và các nhu cầu cần thiết. Lệnh thông báo được truyền đi khắp nơi từ thành thị phồn náo đến hang cùng ngõ hẻm nên ai cũng biết vị thầy, sau khi nhận hạt kim cương mới nghĩ rằng gia cảnh anh thợ săn chắc rất túng thiếu nên khởi lòng từ bi đem đến tặng anh ta, không ngờ tai họa bắt đầu ập đến. Tên thợ săn nhân cơ hội này trói vị thầy ân nhân đã cứu sống mạng mình, nộp cho nhà vua để được nhận đầy đủ các thứ nhà vua vua hỏi vị thầy “Hạt kim cương này do đâu mà ngươi có, hãy mau thành thật khai báo”. Vị thầy suy nghĩ, nếu ông nói thật ra thì tất cả loài quạ trên thế gian này sẽ bị tiêu diệt hết. Còn nếu tự mình nhận lấy thì phạm giới tu hành sẽ làm cho mọi người mất tín tâm. Nghĩ vậy nên thầy đành im lặng, một mực cam chịu sự đánh đập, hành hạ dã man. Tuy vậy, thầy không khởi tâm oán giận nhà vua, mà còn khởi lòng bi mẫn, thương xót phát nguyện sau khi thành tựu đạo lý giác ngộ giải thoát, sẽ độ nhà vua trước tiên. Nhà vua thấy ngài bị tra tấn dã man mà không hề có thái độ sợ hãi, nên truyền lệnh chôn sống vị thầy, chỉ chừa cái đầu bên trên. Con rắn hay tin thầy bị oan gia vì muốn giúp người mà đành chịu khổ, nó tức tối nên tìm cách cứu đó, rắn bò vào cung, cắn chết thái tử là đứa con duy nhất của nhà vua. Xong, nó bò về chỗ thầy bị chôn sống, trao thuốc giải độc cho thầy, rồi từ biệt thầy ra đi. Thương tiếc đứa con duy nhất, nhà vua truyền lệnh, nếu ai cứu được thái tử, ông sẽ nhường lại nửa giang sơn. Danh y các nơi nghe thế đều tìm về cung chữa trị, nhưng tất cả đều bó tay, chào thua. Tin thái tử chết và tin thầy tu bị chôn sống được lan truyền rất nhanh. Người hiểu đạo thì tội nghiệp cho nhà vua, người không hiểu thì nói đáng đời cho nhà vua, kẻ thì nói gieo gió thì gặt bão, họ bàn tán xôn xao vì sự oan trái này. Một người lính đi ngang chỗ thầy tu đang bị chôn sống, vừa đi vừa thốt lên tội nghiệp cho nhà vua quá, có đứa con duy nhất mà giờ phải chịu chết vì rắn cắn. Vị thầy nghe vậy mới nói rằng “Tôi có thuốc giải độc rắn cắn hay lắm”.Bạn đang xem Giúp người người trả ơn Thế là tên lính liền đem thuốc giải về trình vua và cho thái tử uống thử. Thật là mầu nhiệm! Mười phút sau, thái tử hồi tỉnh lại trong sự vui mừng của tất cả mọi người. Nhà vua liền truyền lệnh mau cứu sống vị thầy tu và quỳ xuống ăn năn sám hối “Mong thầy tha thứ lỗi lầm, con vì người phàm mắt thịt nên xém chút đã giết oan một người tu hành chân chính như thầy”.Sau đó, nhà vua cùng quan quân, gia đình, người thân đồng đến quy y nương tựa thầy cầu mong sự chỉ dạy. Vị thầy vì lòng từ bi cao cả nên đã chấp nhận hết mọi oan gia đau khổ, để tất cả chúng sinh được sống bình yên, hạnh đó, thầy hướng dẫn cho vua biết tin sâu nhân quả, khuyên nhủ mọi người làm lành, lánh dữ để cùng nhau sống yêu thương, hiểu biết, để đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Sau khi mọi việc xong xuôi, nhà vua mới hỏi “Tại sao thầy lại không nói lên sự thật?” – “Nếu ta nói lên sự thật thì các loài quạ trong nước đều phải bị hủy diệt hết. Chính vì lẽ đó nên ta không nói. Còn nếu nói sai sự thật thì cũng phạm vào giới cấm, làm cho người khác càng mất niềm tin nơi Phật pháp, ta thà cam chịu đau thương để mọi loài không bị tổn hại”. Vua nghe xong hai hàng lệ rơi mà càng cung kính thầy, vừa cảm phục đức độ của vị chân tu, vừa hổ thẹn vì sự phán xét sai lầm của đến, nhà vua truyền lệnh chu di ba họ gia đình anh thợ săn, nhưng vị thầy xin vua hãy tha thứ, để anh ta có cơ hội làm mới lại chính mình. Vua nghe lời và từ đó phát tâm xây dựng chùa chiền để hướng dẫn cho mọi người tu chuyện ngụ ngôn trên nói lên sự bạc bẽo của con người khi không có sự hiểu biết chân chính, không có lòng nhân, không có tình người, không tin sâu nhân quả. Chính vì không tin sâu nhân quả, tin không có đời sau mà người ta đành lòng giết hại lẫn nhau để bảo tồn mạng sống cho riêng mình. Kẻ có quyền cao chức trọng thì nhân danh thượng đế, buộc mọi người phải kính cẩn tôn người vì có hiểu biết nên hơn hẳn các loài vật nhờ biết suy nghĩ, quán chiếu, tìm tòi, biết vận dụng đi theo chiều hướng tốt đẹp, cùng giúp nhau sống an vui, hạnh phúc. Nếu si mê, chấp ngã thì tìm cách chiếm hữu của kẻ khác bằng nhiều hình thức, miễn sao lợi cho mình là được, còn ai khổ đau mặc các loài vật thì sao? Khi ai cứu nó, nuôi nó, nó sẽ nhớ ơn suốt đời, không bao giờ có tâm phản phúc, mà còn tìm cách để trả ơn và đền ơn. Chính vì lẽ đó mà dân gian có câu “Cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân, nhân trả oán”, thật không sai chút người lòng dạ đổi thayNgoài môi, chót lưỡi những câu ân thêm Tác Dụng Của Nước Đậu Đen Rang, Đậu Đen Có Thực Sự Là “Thần Dược”Biết đền ơn, đáp nghĩa là một việc làm cao quý nhất trong cuộc đời, con người sống thiếu nó thì không có lòng nhân. Biết ơn và đền ơn là đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây. Hiện tại, người Việt Nam chúng ta vẫn giữ được truyền thống tốt đẹp và cao cả này. Ai phủ nhận công ơn của cha mẹ, công ơn của thầy Tổ, công ơn của đất nước, công ơn của tất cả chúng sinh, kẻ đó gọi là “người vong ơn bội nghĩa”.Ơn cha mẹ là ơn cao cả nhất. Mẹ mang nặng, đẻ đau, cha làm lụng vất vả, nhọc nhằn, chịu cực khổ, mà không hề oán than, chỉ một lòng mong cho con trẻ mau được lớn khôn để nên danh phận ở đời. Đó là sự mong muốn của các bậc làm cha đời, các em học sinh còn phải biết ơn thầy cô giáo dạy chữ, dạy nghề. Trong đạo pháp, ơn thầy Tổ thì vô cùng cao quý. Cha mẹ làm nên thân ta, thầy cô giúp ta có hiểu biết và công ăn việc làm. Thầy Tổ giúp ta giới, thân, huệ mạng trang nghiêm, trong sạch, sống có nhân cách và đạo đức. Đức Phật ngày xưa, khi thọ ơn ai một điều gì, dù nhỏ nhặt nhất vẫn nhớ và tìm cách trả một kiếp quá khứ, Ngài thọ ơn một người vì đã nói một lời an ủi. Kiếp hiện tại, vị ấy là đệ tử xuất gia theo Phật, nhưng bị bệnh ghẻ lỡ, hôi hám, do quả báo kiếp trước khi làm quan đánh đập, hành hạ nhiều người oan sai, hiện tại phải bị quả báo bệnh khổ. Phật đích thân cùng ngài A Nan đến chỗ đệ tử thăm bệnh và ân cần hỏi han, chăm sóc. Chính Phật đích thân nấu nước, tắm rửa, lau chùi cho thầy tỳ kheo cơn khốn đốn, khổ bệnh hành hạ, vị tỳ kheo được Phật quan tâm, tận tình chăm sóc, như được uống nước cam lồ nên thân tâm cảm thấy nhẹ nhàng, an ổn. Song, Phật chỉ dạy phương pháp quán bệnh khổ, vị tỳ kheo tinh cần miên mật, nhiếp tâm quán chiếu mà chứng quả giác ngộ giải bây giờ yên ổn tu hành, không phải bận rộn lo toan các thứ, vì đã có nhiều người hy sinh, chịu khổ, bảo vệ đất nước, giữ gìn an ninh, trật tự cho mình. Họ đã phải can đảm chấp nhận xa lìa người thân, bảo vệ biên cương, bờ cõi. Ta cần phải cám ơn các nhà lãnh đạo đất nước, cùng các chiến sĩ đã hy sinh thầm lặng. Một đất nước luôn bị giặc giã, luôn bị chiến tranh, thì thử hỏi ta có thể yên ổn tu hành hay không? Do đó, Phật dạy ta phải biết ơn đất nước mà cố gắng tu hành để được an lạc hạnh phúc mà dấn thân phục vụ tốt đạo, đẹp đời. Và còn một ơn này nữa cũng tối quan trọng, đó là ơn tất cả chúng sinh và bầu vũ trụ bao la này. Ta không làm ruộng nhưng vẫn có cơm ăn, ta không nuôi tằm dệt vải nhưng vẫn có áo quần mặc ấm. Biết bao con người phải làm lụng vất vả, hành nghề giết mổ để ta được ăn ngon, sống khỏe và bảo tồn mạng sống. Ơn nghĩa ở thế gian là bao la, vô cùng tận, ta không thể nhất thời mà trả hết những công ơn đó, Phật dạy ta biết ơn và đền ơn là đạo lý uống nước nhớ nguồn. Ai sống luôn nhớ nghĩ và thực hành như vậy, sẽ là những phật tử chân chính sống đúng theo lời dạy của Như Lai Thế Tôn. Ngày xưa, có một anh chàng không có tài nghề gì cả, chỉ được cái hiền lành hay thương người. Từ lúc vợ chết, anh ta trở nên túng bấn tợn. Có dạo phải ngửa tay ăn xin. Thấy nghề này hèn hạ lại không nuôi nổi tấm thân, anh chàng mới xoay sang đi làm thuê. Nhưng chỉ làm được một ngày anh đã thấy nhọc mệt và bị chủ la mắng nhục nhã, nên lại dự định làm nghề đi câu là nghề anh cho là thong thả tự do hơn. Chiều hôm đó, người ta trả công cho ba mươi đồng kẽm. Anh chàng bèn lấy số tiền đó làm vốn, mua lưỡi mua dây quyết chí làm ăn bằng nghề nghiệp mới. Sáng hôm sau, anh ra ngồi ở bờ sông câu cá. Nhưng mãi đến trưa chả kiếm được một tý gì. Mồi cứ mất toi. Mãi đến chiều mới thấy phao chìm xuống, anh giật lên thì được một con rắn nước. Lấy làm bực mình, anh chàng gỡ con rắn ra rồi quẳng xuống sông. Lần thứ hai giật lên thì lại chính con rắn nước hồi nãy mắc vào lưỡi. Anh than thở với rắn “Rắn ôi! Tao nghèo lắm, chỉ được ba mươi đồng kẽm thôi. Mày đừng hại tao hết cả mồi, rồi đây biết lấy gì kiếm ăn”. Anh chàng lại quẳng rắn xuống nước. Lần thứ ba cũng lại con rắn đó mắc lưỡi câu. Lần này hắn giận lắm không thả rắn xuống nước nữa mà nắm lấy cổ rắn định mang đi giết. Qua cửa đền bà thần Khai Khẩu, tự nhiên con rắn nước kêu lên -Đừng giết tôi. Tôi là con vua Thủy phủ, vì muốn đánh bạn với anh nên mới tự cắn câu nhiều lần như thế. Hãy cho tôi đi theo, tôi sẽ giúp anh vượt qua cảnh nghèo. Anh nghe lời, cho rắn theo mình. Từ đó hắn câu được nhiều cá thứ ăn, thứ bán, cuộc sống rất dễ chịu. Anh chàng với rắn ngày một tương đắc. Một hôm rắn cho anh biết chỉ ba ngày nữa sẽ có một trận lụt lớn xưa nay chưa từng có. Anh nghe lời rắn đóng một chiếc bè nứa để phòng tai nạn. Anh lại còn loan báo cho mọi người xung quanh biết. Nhưng chả một ai thèm nghe. Ba ngày sau, quả nhiên gió bão nổi lên đùng đùng, mưa to như trút, nước dâng lên như biển cả. Người, vật, đồ đạc và mùa màng, đều trôi băng băng mất tích. Mãi đến ngày cơn bão tạnh, anh mới dám chống bè tìm về chốn cũ. Thấy một cái tổ kiến đang lênh đênh trên dòng nước, con rắn bảo anh chàng -Anh hãy cứu chúng nó một chút. Anh trả lời -Vớt làm gì bầy kiến nhỏ mọn ấy để nó bò khắp bè. Nhưng rắn khẩn khoản -Không, anh hãy nghe lời tôi đi. Rồi chúng nó sẽ trả ơn anh. Nghe lời rắn, anh chàng vớt cái tổ kiến lên bè của mình. Đi được một đoạn, lại gặp một con chuột đang lội bì bõm sắp chết đuối. Rắn lại giục anh vớt lên. “ồ -hắn đáp -Con chuột thì cho nó chết chứ cứu nó mà làm gì?” “Không, anh hãy nghe tôi đi. Rồi nó sẽ trả ơn anh”. Nghe lời rắn, anh chàng vớt con chuột lên bè của mình. Đến một chỗ khác họ lại gặp một con trăn đang nằm cuộn tròn trên một ngọn cây giữa dòng nước đợi chết. Rắn cũng giục anh giúp trăn thoát nạn “ồ -hắn đáp. -Con trăn kinh lắm, cứu nó mà làm gì? “ -“Không. Anh hãy nghe tôi đi. Rồi nó sẽ trả ơn anh”. Nghe lời rắn, anh chàng lại giúp cho con trăn lên bè. Sau cùng họ gặp một người đàn ông đang bám vào một cây gỗ nổi bập bềnh giữa dòng nước. Anh không đợi rắn bảo, định vớt lên bè, nhưng con rắn cản lại -Anh đừng vớt nó lên làm gì. Nó sẽ làm hại anh đấy. Anh đáp -Người ta thường nói cứu một người dương gian bằng một ngàn âm ti. Sao lại chỉ cứu vật mà không cứu người kia chứ. Nói đoạn, mặc kệ lời rắn can ngăn, anh nhất định thực hiện ý nghĩ của mình, vớt người sắp chết đuối đó lên bè, cho sưởi lửa ấm và cho ăn uống tử tế. Sau mấy ngày nước rút đi hết, anh thả tất cả những con vật lên bờ. Còn người nọ vì gia đình phiêu bạt, nhà cửa trôi mất cả nên anh cho ở lại với mình cùng câu cá nuôi nhau và coi như em ruột. * * * Đến lúc con rắn nước trở về thủy phủ thì nó mời anh cùng đi theo xuống giang sơn của cha mình. Dọc đường, rắn bảo bạn “Nếu cha tôi có cho gì thì anh nhớ đừng nhận, mà chỉ xin lấy cây đàn thất huyền. Đàn ấy nếu có giặc, gảy một bài là có thể làm cho giặc phải tan”. Vua Thủy thấy có bạn của con tới chơi lấy làm mừng rỡ, đãi anh chàng rất hậu. Khi vua Thủy sai quân hầu mang vàng bạc châu báu đến biếu, anh nhớ lời rắn cố khước từ, chỉ xin có mỗi một chiếc đàn thất huyền. Vua Thủy nể chàng, thuận cho ngay. Anh trở về cõi đất, quý chiếc đàn vô hạn. Một hôm anh có việc phải đi xa. Trước khi đi, anh giấu chiếc đàn thần dưới cót thóc, dặn người bạn chớ có bén mảng đến chỗ cót thóc đó. Nhưng người kia nghe dặn, đồ rằng dưới ấy tất có vật quý bèn cố tâm kiếm tìm, quả bắt được cây đàn. Hắn đã biết sự mầu nhiệm của chiếc đàn ấy bèn lấy trộm rồi trốn đến kinh đô để lập công danh. Hồi ấy quân đội nhà vua phải đối địch với một nước láng giềng luôn luôn kéo quân sang quấy nhiễu bờ cõi. Hắn vào xin vua đi tiễu trừ giặc dữ. Nhờ có chiếc đàn thần, hắn đã làm cho quân đội của đối phương thua liểng xiểng. Lúc thắng trận trở về, hắn được nhà vua hết lời khen ngợi, phong làm đại tướng, ban lộc rất hậu. Được giàu sang, hắn không còn nghĩ gì đến ân nhân của mình nữa. Nhà vua toan gả công chúa cho đại tướng nhưng vừa hứa hôn thì bỗng dưng công chúa bị câm. Vì thế hôn lễ đành phải hoãn lại chờ lúc công chúa lành bệnh mới cử hành. * * * Lại nói chuyện anh chàng câu cá khi trở về thấy mất bạn lại mất cả cây đàn thất huyền thì vội bỏ nhà đi tìm. Vào đến kinh đô, một hôm anh gặp người kia bây giờ đang ngồi trên kiệu sơn son thiếp vàng, có quân gia theo hầu đông nghịt. Anh đón kiệu lại, cất tiếng hỏi thăm bạn cũ. Nhưng người kia vừa gặp ân nhân của mình đã vội thét lính bắt trói lại. Thế rồi, để khỏi lộ chuyện, hắn vu cho anh làm giặc, sai nhốt một chỗ kín đáo, không cho ăn, để chờ ngày đưa ra pháp trường. Trong ngục tối, giữa khi anh chàng đang than thân trách phận thì bầy kiến ngày xưa đã tìm được cách lọt vào hỏi thăm “Tại sao ông bị giam ở đây?”. Anh chàng ngơ ngác không hiểu tiếng ai hỏi mình, bèn hỏi lại “Ai đó? Tại sao tôi chỉ nghe tiếng mà không thấy người?” -“Chúng tôi là bầy kiến mà ông cứu khỏi nạn lụt ngày xưa, hiện đang ở dưới chân ông đây!”. Anh chàng cúi xuống tìm kiến rồi kể chuyện cho kiến nghe nông nỗi của mình. Kiến nói “Chúng tôi không thể làm được gì nhưng để chúng tôi đi kiếm con chuột ngày ấy, may chuột có kế gì chăng”. Lũ kiến bèn chia nhau mỗi con một phương đi kiếm chuột và báo tin không may của ân nhân cho chuột biết. Chuột bảo “Bây giờ chắc ông ấy đói lắm, để tôi mang vào ngục một ít thức ăn đã. Rồi tôi sẽ đi kiếm con trăn xem thử nó có mưu mẹo gì chăng”. Chuột liền đưa khoai và bánh lấy trộm được của một nhà hàng vào ngục cho anh chàng ăn. Anh tỏ lời cám ơn. Rồi cả gia đình nhà chuột lại kéo nhau đi tìm trăn. Lúc sắp đến nhà trăn, cả bầy chuột sợ trăn ăn thịt bèn trèo lên cây cao gọi xuống “Bác trăn ơi! Bác trăn ơi!”. Khi trăn ra, một con chuột già đánh bạo xuống kể chuyện cho trăn biết. Trăn nhả ra một viên ngọc bảo chuột đưa về cho ân nhân mà rằng “Viên ngọc này mài ra thành bột có thể chữa lành câm. n nhân của chúng ta có thể đem chữa bệnh cho công chúa rồi nhờ đó mà thoát nạn”. Khi được ngọc, anh chàng gọi người cai ngục đến nói mình có phép cứu công chúa khỏi câm. Người ta dẫn anh đến trước vua. Quả nhiên sau khi công chúa uống nước ngọc mài bỗng nói được, và câu đầu tiên của nàng là đòi lấy người cứu mình làm chồng. Vua rất 85 86 khen ngợi, hỏi anh ta vì sao có thứ thuốc thần diệu đến thế. Anh chàng kể lại đầu đuôi câu chuyện, từ lúc câu được rắn, cứu được các con vật và người, cho đến lúc bị người phản bội, còn các con vật lại tìm cách trả ơn, trong đó có con trăn cho mình viên ngọc quý. Vua nghe xong tắc lưỡi “Thật là bụng dạ con người sâu hiểm hơn cả những con vật nguy hiểm!”. Lập tức vua sai lính bắt giam tên đại tướng bất nghĩa kia để chờ ngày phán xử. Còn anh chàng đi câu được vua cho làm quan và gả công chúa. Anh ta sống một cuộc đời sung sướng hơn trước. Nguồn Sưu tầm

cứu vật vật trả ơn